Móng đơn, móng băng, móng bè, móng cọc khác nhau thế nào? Tại sao cách tính hệ số chi phí xây dựng lại khác nhau đối với mỗi phương án móng?
Trong 4 loại móng phổ biến khi xây dựng nhà ở thì móng đơn có chi phí thi công thấp nhất thuồng chỉ dùng cho nhà dưới 2 tầng quy mô nhỏ, móng cọc có chi phí xây dựng thường sẽ nhiều nhất và có nhiều phương pháp thi công khác nhau tùy theo điều kiện và vị trí thi công.
Móng đơn
Đối với nhà có kết cấu khung chịu lực hoặc cột chịu lực, thì bên dưới mỗi cột có mỏng độc lập gọi là mỏng đơn (hay còn gọi là mỏng chân vịt, móng trụ, móng độc lập, móng cốc...).
Ưu điểm của móng đơn là tiết kiệm vật liệu, giảm chi phí và thời gian thi công.
Nhược điểm của móng đơn là chỉ áp dụng cho nhà ít tầng (dưới 2 tầng và thường được dùng nhất cho nhà cấp 4), tải trọng truyền lên đất nhỏ, áp suất đáy mỏng nhỏ hơn cường độ của đất. Móng đơn có 2 loại là loại lệch tâm (thường ở góc nhà) và loại đúng tâm.(thường ở hàng cột giữa nhà)
Móng băng
Là loại mỏng chạy suốt bên dưới các tường chịu lực hoặc tạo thành các dải dài dưới chân hệ thống cột chịu lực. Móng băng dưới cột hay còn gọi là móng dầm, dầm có thể có sườn trên hoặc sườn dưới. Loại móng này tạo thành một vành đai liên kết các chân cột. Có hai loại móng băng một phương và móng băng hai phương.
Móng băng 1 phương thường dùng cho nhà phố cao 3 tầng nền đất tốt móng sẽ nối 2 cột theo chiều ngang nhà (thường 5m).
Móng băng 2 phương dùng cho nhà phố cao hơn 3 tầng nơi có nền đất yêu hoặc biệt thự có nhiều hàng cột.
Móng bè
Sử dụng khi sức chịu tải của đất nền quả yếu so với tải trọng của công trình. Bề rộng của đáy móng (cả móng băng và móng đơn) tính toán chiếm trên 75% diện tích nền nhà. Khi đó người ta liên kết các móng lại thành một khối gọi là móng bè.
-
Móng bè áp dụng cho công trình cao tầng, giúp phân bố đồng đều tải trọng của công trình lên nền đất, giải tỏa sức nặng và tránh hiện tượng lún không đồng đều.
-
Móng bè có thời gian thi công và chi phí lớn hơn nhiều so với hai loại móng băng và móng đơn.
Móng cọc
Là loại mỏng sử dụng phổ biến hiện nay do khả năng chịu lực cao, dùng trong trường hợp dưới lớp đất yếu là lớp đất rắn, cọc được đóng tới lớp đất rắn ổn định này và truyền tải trọng vào đó. Nền móng cọc chống không bị lún hoặc lún đều trong phạm vi cho phép.
Móng cọc cho phép giảm khối lượng đào đất, giảm tiết diện mỏng nhưng vẫn đảm bảo công trình chịu được tải trọng lớn và độ bền vững cao, không phụ thuộc vào mực nước ngầm, thi công thuận tiện và cơ động hơn các loại mỏng khác nên được sử dụng rất nhiều trong các công trình nhà ở gia đình hiện nay.
Chính vì biện pháp thi công, phương án thiết kế kết cấu cách bố trí sắt thép, khối tích bê tông của mỗi phương án móng khác nhau, nên dẫn đến giá thành thi công của các loại móng có sự chênh lệch. Đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt trong hệ số móng khi thi công công trình.
Cách tính hệ số móng của công trình nhà ở thông thường hiện nay như sau:
-
Móng đơn tính 20% đến 35% diện tích tầng trệt (tầng 1). Móng băng một phương tính 40% đến 50% diện tích tầng trệt, móng băng 2 phương tính 50 đến 75% diện tích tầng trệt.
-
Đài móng trên nền cọc bê tông cốt thép, cọc khoan nhồi tính bằng 40%- 50% diện tích tầng trệt (lưu ý đây là chi phí riêng của đài móng, không tính chi phi riêng của phần cọc phía dưới).
-
Móng bè tinh 100% diện tích tầng trệt.